Lời Giới Thiệu
Hiện nay là thời đại văn minh khoa học, bàn về chuyện nhân quả chẳng phải là mê tín lắm sao? Thật ra, vấn đề mà khoa học nghiên cứu là những quan hệ nhân quả và quy luật của giới tự nhiên, bất cứ một hiện tượng nào đều có quy luật nhất định. Nhưng đằng sau nguyên nhân sâu xa của nhân quả ấy thì khoa học thật khó mà giải thích, chứng minh được đối với những hoạt động tinh thần, những điều bí ẩn bên trong thế giới tâm linh, nhân quả của tiền kiếp hay hậu kiếp. Vì thế, vấn đề này chỉ có thể dùng triết học và tôn giáo để lý giải và xử lý.
Kinh nhân quả ba đời đã từng nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị, dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” (Muốn biết nhân đời trước, xem quả hưởng đời này, muốn biết quả tương lai, xét nhân gieo hiện tại). Điều này nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa kiếp trước, hiện tại và kiếp sau mà quy luật của nó là tự làm tự chịu.
Thái Thượng cảm ứng Thiên đã từng nói: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình”. Khi con người làm việc ác, vô tình đã gieo một hạt giống, khi thời cơ chín mùi, điều kiện thích hợp thì nội cảm ngoại ứng nhân quả lập tức hiệu nghiệm giống như bị ma sai quỷ khiến vậy. Đúng với câu nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Các nhà Nho cũng rất coi trọng nhân quả, trong Kinh Dịch đã từng viết: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. (Thường xuyên hành công đức, tích đức thì nhất định sau này sẽ được phước báo; ngược lại, thường xuyên hành ác thì nhất định sẽ gặp họa kiếp, tai ương).
Vào thời nhà Chu, vua Nghiêu, vua Thuấn dạy dân làng trồng ngũ cốc, nuôi sống dân làng, công đức vô lượng, đến con cháu đời thứ mười hai lại giúp nhân dân an cư lạc nghiệp. Nam hữu phân, nữ hữu quy, vì thế sinh ra Chu Văn Vương, Văn Vương sinh ra Võ Vương Chu Công, một họ tam Thánh, không những phát dương Chu bang mà còn truyền bá đạo thống văn hóa của Đông Thổ, lưu danh cho đời. Ngược lại, Tần Thủy Hòang hùng bá thiên hạ, dùng quân pháp để trị quốc mà giành lấy giang sơn nhưng sau cùng cũng bị sụp đổ, hai mươi lăm người con của ông đều bị mất mạng dưới tay họ Triệu, bị mang tiếng hôn quân, suốt đời rửa không sạch tội. Đó chính là thiện ác của nhân quả báo ứng, càng chứng minh được đạo lý sâu xa của đạo lý định nghiệp bất diệt ấy.
Khảo cổ học ngày nay có thể được coi là một ngành tiêu biểu nhất. Chẳng hạn sự phát hiện khủng long hóa thạch, thu hút lòng say mê, kéo con người về với thời đại xa xưa, sinh vật tồn tại và sinh sống lâu năm, lúc lại phát hiện xương hóa thạch cách đây ba nghìn năm là hiện thân rõ ràng của nhân quả cảm ứng thiên như thể có thể quyết định sự thịnh suy cũng như thất bại của một vương triều. Mười năm gần đây, ở những ngôi mộ khai quật lên ở Đại Lục xuất hiện những giống cây trồng lâu năm nhưng vẫn có thể mọc rễ, đâm chồi, hoa lá xanh tốt. Không gian, thời gian xuyên suốt quy luật nhân quả và quy luật của giới tự nhiên đều đáng tin cậy và không thể hoài nghi.
Thật ra, những chặng đường lịch sử của nhân loại có thể coi là những mẫu chuyện nhân quả. Chẳng qua vì mắt con người quá hạn hẹp, kiến thức còn nông cạn, nên cố lừa dối chính mình, coi đó như một trò chơi trẻ con, thậm chí nhắm mắt lại tưởng rằng không ai thấy, không ai nghe được! Trong thời thời khắc khắc của mỗi chúng ta, nhân quả tuần hòan vẫn không ngừng tiếp diễn cho dù con người có muốn phủ nhận chúng.
Tác giả quyển sách là GS Ngô Cẩm Tiêu, người Triều Châu, con trai thứ hai của ông Ngô Trường Cao (người đắc quả vị Thanh Hòa Đại Tiên), sau khi cùng huynh trưởng là ĐTS cầu được con đường Thiên Đạo không ngừng phát tâm tu luyện, đi khắp nơi để khai mở Đạo, ông đã từng chứng kiến sự nhiễu nhương của thời đại, sự suy đồi đạo đức, nhân tâm của con người, đời sống nhân dân ngày một đói khổ, phẩm giá không còn thuần phác như xưa, kẻ tham sân si, người oán hận. Với tấm lòng từ bi, ông phát tâm bôn ba lặn lội để tìm những câu chuyện nhân quả có thật. Sau khi được xem xét, bình luận thì được chùa Linh Âm in ra thành sách mang tên “Nhân quả thời đại khoa học”. Hy vọng qua những mẫu chuyện này làm thức tỉnh lương tâm mọi người, thường xuyên tu thân lập đức, hành thiện, không còn hành nghề sát sinh, để tránh phải chịu nỗi đau đớn khôn lường của quả báo luân hồi.
Sách được in ấn tại đạo trường Linh Âm, được Thiên Ân Sư Đức, Tiền Nhân đại đức khổ tâm giúp đỡ. Xin các vị sau khi đọc qua hãy thật tâm phản tỉnh chính mình để đạt đến thế giới thanh bình, hạnh phúc của thiên đường nhân gian.
Trung Hoa Dân Quốc, tháng 4 năm 2002
Hội biên soạn chùa Tam Hiệp Linh Âm
* * *
1. ANH CẢ GIẾT HEO
Lễ Phật Đản tháng tư năm nay, tại Phật đường phía Nam biên cương đất Thái đang giảng một tiết học: “Nhân quả báo ứng và lục đạo luân hồi”, các vị thiện nam tín nữ đều tham gia rất hăng hái, ban đêm ở lại tá túc Phật đường. Vì thời gian còn sớm nên chúng tôi trò chuyện với nhau về một số vấn đề liên quan đến Phật học thường thức. Vì kiến thức còn nông cạn nên tôi còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết được; nhất là có một cô đưa ra một vấn đề nan giải khiến tôi nhất thời không thể giải đáp, thậm chí đến hôm nay vẫn còn vướng mắc trong lòng.
Cô ấy khoảng bốn mươi tuổi, đối với nhân quả hoàn toàn tin tưởng, tuyệt đối không hoài nghi. Trong lúc học cô nghe được câu chuyện kể về người sát sanh, lúc lâm chung đau đớn tội nghiệp chịu đủ mọi sự đau đớn giày vò đến lúc tắt thở. Đó là một anh làm nghề giết heo, còn gọi là “Anh cả giết heo”, thời trung niên mắc phải chứng nan y, không thể chữa trị được, phải nằm trên giường suốt mấy tháng, thường xuyên phát ra những tiếng kêu giống như heo. Con cái không nhẫn tâm nhìn thấy cha phải chịu nỗi đau đớn cực hình như thế, bèn van xin bác sĩ kê toa thuốc để cha sớm ngày ra đi thanh thản nhưng bác sĩ không chịu “Lương y như mẹ hiền, lẽ nào người mẹ lại giết con”. Hơn nữa làm như vậy là phạm pháp. Sau cùng được vị lão tiền bối có kinh nghiệm dạy họ chuẩn bị một con dao và một chén nước trắng, giống như cách mà anh ấy giết heo vậy, để ở đầu giường, không bao lâu người đó liền tắt thở, chấm dứt sự hành hạ bi thảm.
Vấn đề ở đây là: Mẹ của cô vì hoàn cảnh bần cùng phải nuôi mười đứa con, từ ngày kết hôn đến nay đã hành nghề sát sanh, giết vịt để làm vịt quay bán. Mỗi ngày chồng đi bán, vợ ở nhà giết vịt và làm vịt quay. Vì bán đắc nên một ngày phải giết khoảng ba mươi con vịt béo, cứ thế kéo dài hơn ba mươi năm nay. Mãi cho đến khi hai đứa con gái xuất giá, chồng qua đời mới nghe lời khuyên của con gái bỏ nghề. Năm ngoái, mẹ cô bệnh suốt một năm. Từng chữa trị ở khắp các bệnh viện lớn nhỏ có tiếng ở Thái Lan nhưng cũng không khỏi bệnh. Bốn tháng trước, bác sĩ trả về nhà dặn dò chuẩn bị hậu sự. Người Trung Quốc có tập quán là ba mẹ lúc lâm chung phải được chết tại nhà của mình cho yên tâm.
Khi được trả về nhà, bốn tháng qua bà đều trong trạng thái hôn mê, có lúc tỉnh dậy như gặp phải chuyện gì đó hoảng sợ, phát ra những tiếng kêu như vịt khiến con cái lo lắng bi thương, bác sĩ không thể chữa trị được, chỉ còn cách là phải nhờ vào Tiên Phật Thần Minh, cầu xin Ơn Trên nhanh chóng tiếp dẫn bà ra đi để khỏi phải chịu sự giày vò tàn khốc như thế này.
Gần đây có một hôm nhận được thông báo của bệnh viện yêu cầu bệnh nhân tới kiểm tra, cắt thêm một lỗ nhỏ trong cổ họng. Hai tuần sau đó về nhà, hiện nay đang nằm mê man, có lúc phát ra những tiếng kêu như vịt.
Vấn đề ở chỗ: Cô ta có thể làm như câu chuyện “Anh cả giết heo” đã giảng hôm nay là chuẩn bị một con dao và một chén nước để tiễn người mẹ ra đi thanh thản được không?
Câu phát biểu này khiến cho tôi giật mình toát cả mồ hôi. Nói đến mẫu chuyện “Anh cả giết heo”, người ta muốn nhấn mạnh đến tính hiện thực của nhân quả báo ứng, cảnh tỉnh những kẻ hung tợn sát hại những sinh vật vô tội. Đối với một số người làm nghề sát sanh, trong hoàn cảnh đó nên chuyển nghề, như Phật đã từng nói: “Lấy mạng người ta để nuôi mạng mình gọi là tà mạng”. Không ngờ chân lý đó lại sống động hiệu nghiệm đến như vậy.
Một lúc không trả lời được câu hỏi đó có lúc tôi hối hận vì đã kể chuyện này, chỉ biết khuyên cô: “Việc này hoàn toàn không thể làm, chúng ta không thể nhẫn tâm nhìn thấy cha mẹ tự sát, vô hình giống như tận tay giết hại cha mẹ vậy”. Cô ấy nức nở hỏi tôi: “Thế thì còn phương pháp gì khiến cho mẹ tôi hoặc sống hoặc chết chứ đừng phải chịu sự giày vò đau đớn như vậy”.
Tôi rất đồng cảm, an ủi đôi lời, khuyên cô hãy phát nguyện tài thí xây chùa, xây bệnh viện hoặc ăn chay trường lấy công đức của mình hồi hướng cho mẹ, để mẹ cô có thể tiêu oan giải nghiệp. Suốt đời cha mẹ không ngừng tạo nghiệp cũng là vì nuôi sống con cái, vì con cái mà hy sinh tất cả, thậm chí dù bị đày trong địa ngục trần gian hay dưới địa phủ cha mẹ cũng chấp nhận. Vì thế con cái phải bù đắp những tội lỗi của cha mẹ để báo đáp công ơn nuôi dưỡng của Người. Tôi còn giải thích những điều hiếu đạo của người làm con:
o Tiểu hiếu: Phụng dưỡng cha mẹ, thích ăn gì thì cung phụng đầy đủ.
o Trung hiếu: Thuận theo lời, theo ý của cha mẹ.
o Đại hiếu: Ngoài việc phụng dưỡng theo ý của cha mẹ còn làm những việc ích nước lợi nhà đem tiếng thơm cho cha mẹ.
o Đại đại hiếu: Ngoài việc thực hiện đầy đủ ba điều hiếu trên còn phải biết tìm cách giúp cha mẹ tiêu oan giải nghiệp, lúc còn sống không bị đày đoạ về thể xác, lúc chết cũng không bị đày xuống lục đạo luân hồi, thoát khỏi cảnh giới sinh tử.
Nghe xong cô ngậm ngùi nước mắt, làm lễ ra về. Giữa tháng chín năm nay được Phật đường mời đến, tôi lại giảng tiết học nhân quả, tối đến lại tá túc Phật đường một đêm. Lúc đó, có một người nói với tôi một tin tức khiến tôi suốt đời không thể quên. Thì ra giữa tháng tư năm nay tôi đã giảng câu chuyện nhân quả, người hỏi tôi về mẹ của cô ấy vì không nhẫn tâm nhìn thấy mẹ mình phải chịu sự giày vò về thể xác, đau đớn về tinh thần, rốt cuộc đã học theo chuyện “Anh cả giết heo”, lấy một con dao sắc và một chén nước trắng lén lút đặt tại đầu giường mẹ nằm, rồi chạy ra sau bếp quỳ khóc. Đến sáng, mẹ cô liền tắt thở. Cô ôm xác mẹ khóc thảm thiết, tưởng chừng như muốn lấy một con dao tự sát theo mẹ xuống suối vàng nhưng lại không đủ dũng khí.
Có 0 nhận xét Đăng nhận xét